Đàn tranh là một trong các loại đàn dân tộc của Việt Nam. Nó được du nhập vào nước ta từ thời Trần và dần trở thành nhạc cụ dân tộc. Bài viết sau sẽ giới thiệu chi tiết về đàn tranh, chúng ta cùng tìm hiểu nhé!
Thông tin về đàn tranh
Đàn tranh hay đàn thập lục có tên chữ Nôm: 彈箏, chữ Hán: 古箏: cổ tranh; Bính âm:Gǔzhēng. Đây là nhạc cụ truyền thống của người phương Đông, xuất xứ từ Trung Quốc.
Đàn tranh thuộc ho dây, chi gảy. Đàn còn được gọi là đàn thập lục do đặc điểm có 16 dây. Ngày nay được cải thiến thành 25 dây.
Ngón chơi truyền thống của đàn tranh là các quãng tám rải hoặc chập. Ngón đặc trưng nhất là vuốt trên những dây và gảy dây.
Đàn tranh được sử dụng để độc tốc, hòa tấu, đệm cho người hát. Loại đàn này cũng được chơi trong nhiều loại âm nhạc như những dàn nhạc dân ca, kết hợp cũng với các ca khúc của C-pop…
Cấu tạo
- Đần tranh có dạng hình hộp dài.
- Khung đàn hình thành, dài 110 – 120cm. Đầu lớn rộng từ 25 – 30cm, có lỗ và con chắn để mắc dây đàn. Đầu nhỏ rộng từ 15 – 20cm, được gắn từ 16 – 25 khóa lên dây chéo qua mặt đàn.
- Mặt đàn uống hình vòm, được làm bằng gỗ ngô đồng dài 0,05cm.
- Ngựa đàn hay con nhạn nằm ở khoảng giữa dùng để gác dây. Con nhạn có thể di chuyển để điều chỉnh âm thanh.
- Dây đàn trước khi sử dụng dây tơ, ngày nay được làm bằng kim loại, kích cỡ dây khác nhau.
- Khi biểu diễn, nghệ nhân đeo 3 móng gẩy vào 3 ngón cái, trỏ, giữa của tay phải để gẩy. Móng gẩy làm bằng chất liệu như kim loại, đồi mồi hoặc sừng.
Âm sắc
Tiếng đàn tranh trong trẻo, sáng sủa nên thường thể hiện tốt những điệu nhạc vui tươi, nhưng cũng có khu u buồn, hùng tráng.
Dây bằng kim loại mỏng, tơ tằm bện, nylon hoặc polyeste ít thích hợp với tính khỏe mạnh, trầm hùng.
Tầm âm của đàn rộng 3 quãng 8, từ Sol 1 lên Sol 3 hoặc từ Đô lên Đô 3. Điều này phụ thuộc vào cách lên dây đàn.
Sử dụng
Đàn tranh được dùng để độc tấu, hòa tấu, đệm hát và tham gia ở những dàn nhạc tài tử Việt Nam, các dàn nhạc dân tộc tổng hợp quốc tế.
Cách chơi đàn
Ngón dùng để gảy
Cách chơi truyền thống là dùng 2 ngón gẩy. Ngày ngay người chơi thường dùng 3 ngón, một số trường hợp cá biệt dùng 4 – 5 ngón.
Cách dùng 3 ngón gẩy gồm ngón cái (ngón 1), trỏ (ngón 2) và giữa (ngón 3) là phổ biến nhất. Cách cách gẩy cơ bản gồm: Liền bậc, cách bậc, gẩy đi xuống và đi lên liền bậc hoặc cách bậc. Thường dùng móng gẩy để gẩy nhưng riêng đàn sắt thì không dùng mà gẩy bằng đầu bụng ngón tay.
Tư thế chơi đàn
Bàn tay phải nâng lên, ngón tay khum lại, rồi thả lỏng ra, ngón tay đeo nhẫn tì nhẹ lên cầu đàn.
Khi đánh các dây đàn cao, cố hạ dần theo chiều cong của cầu đàn. Cánh tay hãy hạ khép dần lại. Đánh các dây thấp, cổ tay tròn lại và hạ dần về phía trước đàn. Ba ngón tay gảy cần thả lỏng, mềm mại, nhẹ nhàng nâng lên rồi hạ xuống gảy vào dây theo chiều cong tự nhiên của bàn tay, tránh móc dây, gãy ngón.
Kỹ thuật
Ngón Á: Lối gảy phổ biến của đàn tranh, cũng như cổ tranh Trung Quốc. Kỹ thuật gảy ngón á là cách gảy lướt trên hàng dây xen kẽ các câu nhạc. Ngón Á hay vào ở phách yếu để chuẩn bị vào một phách mạnh ở đầu hoặc cuối câu nhạc.
Á lên: Kỹ thuật lướt qua hàng dây. Kỹ thuật này vuốt bằng ngón 2 hoặc ngón 3 từ 1 âm thấp lên những âm cao.
Á xuống: Đây là lối gảy cổ truyền, gảy liền những âm liền bậc, từ 1 âm cao xuống những âm thấp. Có nghĩa dùng ngón cái tay phải lướt nhanh và đều qua các hàng dây, từ cao xuống thấp.
Á vòng là kỹ thuật được kết hợp từ Á lên và Á xuống. Kỹ thuật này thường dùng để mở đầu hoặc kết thúc một câu nhạc. Một số trường hợp, Á vòng được dùng để tả cảnh gió thổi, mưa rơi, sóng nước hoặc dùng ngón Á vòng liên tiếp với nhiều âm.
Ngón vê dùng ngón tay phải ngón 2 hoặc kết hợp ngón 1 – 2 – 3, 1 – 3, 1- 2. Gảy trên dây liên tục, những ngón khác phải khum tròn lại. Cổ tay cần kết hợp với ngón tay đánh xuống và hất lên đều đặn. Cần lưu ý, móng gảy không nên đặt quá xuống xuống gây khi về đề móng gảy. Bởi sẽ tạo ra tiếng đàn không đều đặn và êm ái.
Song thanh: Tức 2 nốt cùng phát một lúc. Kỹ thuật song thanh truyền thống chỉ dùng quãng 8. Hiện nay, các nhạc sĩ còn kết hợp dùng những quãng khác.
Kỹ thuật bàn tay trái
Tư thế
Đầu 3 ngón tay giữa đặt lên trên dây nhẹ nhàng, bàn tay mở tự nhiên, còn ngón tay hơi khum. Hai hoặc 3 ngón tay gồm trỏ, giữa và đeo nhẫn chụm lại. Ngón tay cái và ngón út tách rời, dáng của bàn tay vươn về phía trước.
Mỗi khi rung, nhấn, bàn tay sẽ được nâng lên mềm mại và ba ngón chụm lại sẽ cùng di chuyển từ dây này sang dây khác.
Kỹ thuật
Ngón rung: Sử dụng 1, 2 hoặc 3 ngón tay trái rung nhẹ lên sợi dây đàn mà tay phải mới gảy.
Ngón nhấn: Dùng để đánh thêm được các âm khác. Chẳng hạn như 1/2 âm, 1/3 âm, 1/4 âm mà hệ thống của dây đàn tranh không có.
Sử dụng 3 đầu ngón tay trái nhấn xuống nhẹ 1/2 cung, nặng hơn nếu là 1 cung. Cách nhấn nặng hay nhẹ phụ thuộc vào yêu cầu của bài. Người nghệ nhân phải dùng tai nghe để cảm âm rồi điều chỉnh tay nhấn.
Ngón nhấn luyến: Dùng những ngón nhấn để luyến 2 – 3 âm có độ cao khác nhau. Âm thanh khi sử dụng kỹ thuật này nghe mềm mại, mượt mà và uyển chuyển gần với thanh điệu của tiếng nói. Ngón nhấn luyến có hai loại, gồm:
- Nhấn luyến lên: Gảy vào 1 dây để vang lên. Tay trái nhấn dần lên dây đó để âm thanh được cao hơn hoặc tiếp tục nhấn để cao hơn nữa.
- Nhấn luyến xuống: Kỹ thuật này cần phải mượn nốt. Chẳng hạn như nếu bạn muốn có âm Fa luyến xuống âm Rê thì cần phải mượn dây Rê nhấn mạnh trước rồi mới gảy. Âm Fa ngân lên, ngón tay trái nới dần để âm Rê của dây đó vang theo luyến tiếng cùng với âm Fa.
Đẩ đánh âm nhấn luyến xuống hay lên thì chỉ cần gảy một lần. Độ ngân của các âm nhấn luyến được ghi như những nốt nhạc bình thường.
Cần chú ý:
- Phải phân bổ thời gian để âm có thể đều hoặc không đều.
- Độ cao của âm nhấn luyến xuống hoặc nhấn luyến lên có thể trong vòng quãng 2, quãng 3 thứ ở các âm cao và quãng 4 nếu là âm thấp.
- Không nên dùng âm nhấn luyến liên tiếp.
Ngón nhún: Nhấn liên tục trên 1 dây nào đó để âm thanh cao lên không quá 1 cung liền bậc. Kỹ thuật ngón nhún sẽ tạo thành các làn sống có dao động lớn hơn ở ngón rung giúp âm thanh được mềm mại, tình cảm sâu lắng hơn.
Ngón vỗ: Dùng 2 – 3 đầu ngón tay trỏ, giữa và áp út vỗ lên một dây nào đó bên trái nhạn đàn vừa được gảy. Sau đó nhấc ngay các ngón tay lên để âm thanh cao lên đột ngột từ 1/2 cung – 1 cung. Có 2 loại vỗ, gồm:
- Vỗ đồng thời: Cùng lúc tay phải gảy dây, tay trái vỗ để nghe được 2 âm. Âm phụ do ngón ta trái vỗ sẽ cao hơn 1/2 – 1 cung luyến nhanh ngay xuống âm chính
- Vỗ sau: Tay phải gảy dây đàn xong, tay trái mới vỗ lên dây. Như vậy sẽ tạo ra 3 âm luyến, âm luyến 1 do tay phải gảy lên dây. Âm luyến 2 do ngón vỗ tạo nên và cao hơn âm luyến 1 từ 1/2 – 1 cung, âm luyến thứ 3 do ngón tay vỗ xong rồi nhấc lên ngay, dây đàn trở lại trạng thái cũ. Âm thanh còn lại sẽ vang lên dựa trên độ căng của dây đó lúc ban đầu.
Ngón vuốt: Tay phải gảy đàn sau đó dùng 2 – 3 ngón tay trái vuốt lên dây đàn đó từ nhạn ra đến trục dây hoặc người lại. Cách đánh này sẽ làm tăng sức căng của 1 dây liên tục và đều đặn. Âm thanh của đàn tranh khi đánh theo kỹ thuật này sẽ được nâng lên từ 1/2 – 1 cung.
Ngón gảy tay trái: Ngón tay trái có thể gảy dây trong phạm vi phía bên tay phải của nhạn đàn để thay đổi màu sắc, âm thanh. Tay trái không đeo móng gảy nên khi gảy âm thanh sẽ êm và không vang bằng âm tay phải gảy. Để tạo chồng âm có thể gảy bằng cả hai tay. Tuy nhiên, tay trái gảy âm rãi trong khi tay phải dùng ngón vê hoặc đang nghỉ.
Ngón bịt chính là ngón vừa dùng ngón tay phải gảy dây, vừa dùng đầu ngón tay trái đặt nhẹ lên trên dây đàn hoặc chặn tay trái lên trên đầu nhạn đàn khi gảy 1 nốt. Nếu gảy cả 1 đoạn nhạc với âm bịt thì người gảy dùng cạnh bàn tay phải chặn nhẹ lên đầu đàn, sử dụng tay trái gảy thay cho tay phải. Khi gảy ngón bịt thì âm thanh mờ đục, không vang. Điều này sẽ gây được ấn tượng tương phản sắc nét với đoạn nhạc đánh bình thường.
Một số kỹ thuật chơi đàn tranh mới khác như chơi phản đòn bằng tay trái và chơi hài hòa.
>> Tìm hiểu thêm: Các loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam